Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016

Kỷ niệm ngày giỗ nhà thơ Xuân Quỳnh tiếp theo

Tôi thực sự chạm mặt Quỳnh khi Quỳnh đã là một thiếu phụ ở tuổi ngoài ba mươi. Chúng tôi chênh nhau ít nhất một thế hệ. Tôi - như một người mới nhớm chân vào con đường đời xa tít tắp.
Tôi, cũng như cả thế hệ tôi hồi bấy giờ, tuổi đôi mươi mười tám, với tất cả háo hức của lần đầu đặt chân vào rạp-hát-đời “chờ sân khấu đợi màn lên”. Còn Quỳnh khi ấy đã ra vai - một vai kịch khốc liệt, đang nghỉ ở chặng giữa, để rồi sẽ bước vào hồi mới với cao trào dâng tột đỉnh.

Xem thêm: trung tâm bảo hành tủ lạnh hitachi tại hà nội , sua tu lanh hitachi

          Kỷ niệm ngày giỗ nhà thơ Xuân Quỳnh


Kết thúc vở kịch của Quỳnh không có hậu, một kết thúc ác, tự nó hàm chứa mẫu thuẫn giữa cái phi lý và hữu lý - bởi đó là cái chết do tai nạn bất thường, nào ai có thể tiên liệu trước được tai bay vạ gió. Có lẽ chẳng có cách nào khác hơn là chết - đó là FIN/ The End - kết cuộc không tránh khỏi của vai kịch mà dường như một tác giả nào đó của tấn-trò-đời-thế-gian đã viết riêng quy định cho Xuân Quỳnh với chủ đề: săn đuổi, lùng bắt và kiếm cho được con mồi Hạnh phúc.

Và đó tuyệt đối không phải là một cuộc săn cô đơn “một mình một ngựa” - tôi chỉ muốn dùng nghĩa bóng của cụm từ này - mà Quỳnh buộc phải tự mình trắc nghiệm trên đường đời của riêng mình, không giống bất cứ ai khác.

Có lẽ mãi về sau, ở một chặng nghỉ nào đó, khi đã kiệt sức vì chạy đuổi, Quỳnh đã bắt đầu vỡ lẽ đó là một cuộc săn vô vọng, bởi tất cả sự tương đối của khái niệm hạnh phúc - còn tương đối hơn cả chính khái niệm ấy được Einstein dùng lần đầu trong lý thuyết của ông.

Quỳnh đã không chịu thừa nhận nó ngay từ khởi sự. Quỳnh chống trả. Là người đam mê, cực đoan và hết lòng, Quỳnh chỉ thấy ở hạnh phúc một đòi hỏi tuyệt đối, các bi kịch cuộc đời riêng của Xuân Quỳnh bắt đầu chính từ đó. Quỳnh đã không thể tương đối được khi định vị cái gọi là Hạnh phúc.
Khuôn mặt của Xuân Quỳnh vào những ngày ấy, khoảng đầu thập kỷ 1970 - cũng là cái đoạn trần ai nhất của Quỳnh - như vẫn còn hiển hiện trước mắt tôi. Một khuôn mặt bầu bầu như trái ô-liu, làn da bánh mật khoẻ mạnh, mái tóc đen nhánh như màu mun xoã quanh gương mặt.
Nổi bật lên trong khuôn mặt ấy là đôi mắt, một đôi mắt quá to và quá đen, sâu thẳm, long lanh một ánh nhìn sắc sảo, vừa chăm chắm vừa phiền muộn và đâu đó hình như có những giọt nước mắt ngấp nghé chỉ muốn trào qua bờ mi. Đặc biệt nhất, là giọng nói, bao giờ giọng nói của Quỳnh cũng run rẩy nghẹn ngào như có tiếng khóc ở bên trong...
Bằng vào hai thông số đặc biệt ấy của chân dung, người ta không thể đoán định một số phận tốt hơn cho Xuân Quỳnh, ngoài việc biết chắc rằng Quỳnh sẽ khổ và suốt đời sẽ phải tự mình vác lấy cây thánh giá của mình trên lưng.
Quỳnh có cái gì hao hao giống cô Quỳ - nhân vật chính trong thiên truyện ngắn rất hay của cố nhà văn Nguyễn Minh Châu Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành - đẹp, tự tin, sắc sảo, tài hoa nhưng đa đoan và truân chuyên...
Lúc đó, Quỳnh đang chênh vênh giữa hai hồi kịch. Màn kịch dạo đầu không mấy tốt đẹp - gia đình đổ vỡ và cuộc chia tay không tránh khỏi. Biết thả neo lần nữa vào đâu, ở sông biển nào, khi cuộc đời thì cứ rộng rinh “nào ai biết được bến bờ của nó”...
Lại một lần nữa, Quỳnh nhỡ nhàng và lầm lạc về nước giếng lòng người. Ờ, mà hình như người đàn bà càng thông minh sắc sảo thì càng dễ lầm lẫn hay sao?
Nhưng cũng chính vào cái lúc mưa gió bất thường ấy của một thời gian khó, đã kết trái những chùm thơ tình hay nhất của nữ sĩ Xuân Quỳnh, hiến cho nền thi ca Việt Nam hiện đại (không phải thời nào cũng sẵn có nhiều lắm những bài thơ tình thiệt hay).

Màu chủ đạo là đơn côi và chênh vênh

Màu chủ đạo trong tâm trạng Quỳnh khi đó là đơn côi và chênh vênh giữa một mùa đẹp nhất và ngắn nhất trong nhịp đi hàng năm của giời đất bốn mùa.

Thu đã chớm se trong hanh hao và lạnh dịu, hoa cúc đã đổ vàng “như nỗi nhớ dây dưa”, lá sen đã xanh như ngọc, hoa sen đã hồng lên trong các gương hồ, cốm đã lên hương nếp non cạnh hoa trái, chuối tiêu chín ửng màu trứng cuốc, trời đã xanh màu viễn xứ, thắm thiết bay những làn mây trắng và trong vườn thơ của Quỳnh, đến cỏ... cũng bồi hồi “lật theo chiều mây” về phương gió thổi...

Mùa thu năm ấy quá đẹp và lộng lẫy đến tương phản với tâm trạng của Quỳnh. Một tâm trạng đơn chiếc, phân vân không định như giữa hai màu áo Quỳnh ưng mặc những ngày ấy: màu đen hoặc màu hoàng yến.

Quỳnh mặc cả hai, màu đen cho những lúc buồn phiền, màu hoàng yến cho những ngày tâm hồn hình như có lúc trở lại yên tĩnh và loé lên một tia nắng ấm của hy vọng nào đó. Nhưng yên tĩnh chẳng đậu được lâu.

Có lẽ lòng Quỳnh cũng nghiêng ngả chênh chao như câu thơ chơi vơi nọ của Quỳnh: "Em từ nhà đi đến ngã tư/ Gặp đèn đỏ trước hàng đinh thứ nhất/ Chờ sang đường đèn xanh vừa bật/ Em lại quay về, thành phố mùa đông..."

Thi thoảng, người ta có thể gặp Quỳnh đạp xe một mình lang thang trên lối phố thường quen của Hà Nội, trên vai bay lất phất một mảnh khăn voan màu nắng nhẹ và màu áo len vàng sáng cả buổi chiều. Nhưng đó chỉ là một vệt nắng nhỏ nhoi hiu hắt trên nền tranh sẫm tối.

Rất nhiều ngày Quỳnh mặc màu đen, đôi mắt to mênh mang nghĩ ngợi. Quỳnh như chỉ còn một mình với chính bản thân mình và lui vào một cuộc độc thoại đơn chiếc. Quỳnh có trò chuyện với ai thì cũng với một bộ mặt đi vắng tận đâu đâu.

Nói đấy, kể chuyện đấy, bông đùa đấy, nhưng lòng lại để tận nơi xa lắc nào, chỉ một mình Quỳnh biết. Tất cả niềm vui, nỗi buồn như mắc cả ở đó.

Đôi mắt đẹp thất lạc, lúc nào cũng như rưng lệ và giọng nói cứ như bên trong có tiếng khóc của Quỳnh, và cả sự đơn côi vô phương của Quỳnh lúc ấy và bao giờ cũng vậy, mặc lòng, đã tố cáo cái đặc điểm chói chang nhất trong tính cách của Quỳnh là bao giờ cũng yêu người vượt qua cả bản thân mình, yêu như chưa từng yêu bao giờ, như giông như gió, như đắm như chìm, đến mức trong thơ Quỳnh tự thú: “Lòng em nhớ đến anh, cả trong mơ còn thức”.

... Đời Quỳnh, rốt cuộc, như nhiều người đàn bà tài hoa khác, cũng không ra khỏi thân phận mình. Vai kịch của Quỳnh từ đầu đến cuối đã được chỉ định bởi số kiếp.

Dân gian quả có lý khi phát biểu cái lẽ thông suốt của sự vật bằng cách ngôn cô đọng “chạy trời không khỏi nắng”. Và cách đây mấy trăm năm, đại thi hào họ Nguyễn đã từng than tiếc cho cô Kiều dù “tài sắc mười phân vẹn mười” cũng không sao chạy thoát được “lưới trời lồng lộng”...

Một nhà thơ hạnh phúc

Nhưng về phương diện khác, phương diện một nữ sĩ, Quỳnh là một người cầm bút hạnh phúc. Tất cả niềm vui, nỗi khổ, những lênh đênh bảy nổi ba chìm của Quỳnh đã được Thơ trang trải hết.
Thơ là khuôn mặt ngời ngợi sáng trong của tâm hồn Quỳnh, có bao nhiêu ánh sáng cũng đã được phản chiếu qua thơ và ngay cả khi Quỳnh như một chiếc lá đã lìa cành thì thơ vẫn tiếp tục sự tồn tại của Quỳnh trên cõi đời này.
Chỉ mỗi thơ - chứ không phải người - đã thuỷ chung như nhất với Quỳnh, là nơi yên nghỉ êm đềm cho tâm hồn mệt mỏi của Quỳnh.
Thơ, với Quỳnh, đích thực là một hạnh phúc. Quỳnh bắt đầu đời làm thơ của mình dung dị hồn nhiên như một con sông vận hành ra biển với những con sóng nhỏ nồng nàn, khao khát vị mặn trùng khơi.

Hình tượng con sóng thơ ấy của Quỳnh ngay từ khi xuất hiện đã mang trong mình nó những đặc tính song đôi tương phản - dự báo một tính cách thơ chói gắt, đầy suy tư trăn trở sau này của nữ sĩ Xuân Quỳnh - "dữ dội và dịu êm - ồn ào và lặng lẽ - sóng không hiểu nổi mình - sông tìm ra tận bể - ôi con sóng ngày xưa - và ngày sau cũng thế - nỗi khát vọng tình yêu - bồi hồi trong ngực trẻ... ”.

Bản chất nồng nhiệt trong thơ Quỳnh dường như dễ ứng với sức sống ồ ạt, ập ã của sóng, của sông và của biển. Chỉ với nôn nao mong ngóng cháy bỏng của riêng Quỳnh, mới có thể viết da diết thế về sóng: Con sóng dưới lòng sâu, Con sóng trên mặt nước, Ôi con sóng nhớ bờ, Ngày đêm không ngủ được; và về biển, một vùng biển chỉ riêng vỗ trong tấm tình nồng nhiệt của Quỳnh: Những ngày không gặp nhau, Lòng thuyền đau rạn vỡ, Những ngày không gặp nhau, Biển cồn cào thương nhớ, Nếu từ giã thuyền rồi, Biển chỉ còn sóng gió, Nếu phải cách xa nhau, Em chỉ còn bão tố...
Thơ của Quỳnh không phải là thứ thơ tình thuận bằng trắc để dễ thuộc lòng, nhưng một khi đã đi vào hồn người, nó sẽ mắc lại ở đó và trở thành cái mà người ta vẫn gọi là “những câu thơ thuộc nằm lòng”.
Nhưng về phương diện khác, phương diện một nữ sĩ, Quỳnh là một người cầm bút hạnh phúc. Tất cả niềm vui, nỗi khổ, những lênh đênh bảy nổi ba chìm của Quỳnh đã được Thơ trang trải hết.Những câu thơ ấy giống hệt như những giọt nước sau cơn mưa qua, còn đọng lại trên lá cây. Chỉ cần một làn gió xúc cảm ở đâu chợt đến, là những câu thơ ấy sẽ rơi rụng ngay xuống vùng tâm thức và mồn một hiện lên giữa lòng ta. Và bao giờ lòng ta cũng phấp phỏng bồn chồn khi đọc hoặc lắng lòng nhớ lại chúng.

Có lẽ, cái “khát vọng tình yêu” từng thiêu đốt thơ Quỳnh cũng thiêu đốt luôn cả người đọc nó. Rất có thể từ đâu không biết, bỗng bất chợt ập đến những câu thơ sao khắc khoải nhức nhối lòng ta thế này, dẫu chỉ là “một chút thơ tình” muộn mằn “cuối mùa thu”:
Mùa thu nay sao bão mưa nhiều
Những cửa sổ con tàu chẳng đóng
Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm
Em lạc loài giữa sâu thẳm lòng anh
Em lo âu trước xa tắp đường mình
Trái tim đập những điều không thể nói
Trái tim đập cồn cào cơn đói
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn...
Thực ra, thơ với đời Quỳnh chỉ là một. Thơ và Quỳnh làm tôi bao giờ cũng liên tưởng đến một người đàn bà yêu đến hết và đến chết - một phẩm chất thơ và phẩm chất người ngày càng trở nên hiếm quý trong thế giới hôm nay phai bạc của chúng ta.
Và ta sẽ chẳng hề ngạc nhiên khi càng về cuối, thơ tình của Quỳnh càng khắc khoải nung đốt lòng người hơn bởi nó thấm đậm những trắc nghiệm của đời Quỳnh. Một chút phong vị của lý tính chẳng mảy may làm giảm bớt đi vẻ đẹp đẫm tình của thơ Xuân Quỳnh vốn có từ sơ khởi:
Đấy tình yêu em muốn nói cùng anh
Nguồn gốc của muôn vàn khát vọng
Lòng tốt để duy trì sự sống
Cho con người thực sự Người hơn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét